Thứ Sáu, 30 tháng 11, 2012

Mứt gừng


     Trên các mảnh vườn quê, người ta thường bắt gặp luống rau gia vị: hành, tỏi, gừng, nghệ, tía tô, ngải cứu, kinh giới, hẹ, xả…, ở vị trí dễ tiếp cận nhất, khi cần là có ngay. Đa số những cây này còn là vị thuốc quý. Một bát cháo hành, tía tô, ăn nóng, cho toát mồ hôi, có thể chữa được cảm mạo. Một nhánh gừng giã nát, đổ vào một ít rượu để đánh cảm, rất hiệu nghiệm.

     Gừng, tên Hán là Khương, có tác dụng thông khí, trừ hàn, tiêu đờm, giải phong, thăng dương… là vị thuốc thường thấy trong các thang thuốc đông y. Gừng ngày nay được sản xuất đại trà theo kiểu công nghiệp, thành một loại trà rất được ưa dùng: trà gừng.

     Vị cay nóng của gừng cộng với vị ngọt mát của đường kính tạo thành một đặc sản không thể thiếu trong hộp mứt tết. Đến thăm nhau ngày đầu xuân rét mướt, ngồi trong những chiếc ghế đệm êm ấm, được chủ nhà trịnh trọng mời uống trà, ăn mứt nhiều loại, nhiều màu sắc bắt mắt, đựng trong các khay nhiều ngăn, không hiểu sao khách thường hưởng ứng bằng việc nhón trước tiên miếng mứt gừng. Có lẽ, sau những bữa ăn nhiều thịt, người ta thấy thèm một chút cay cay.

     Mứt gừng chế biến không khó. Gừng rửa sạch, gọt vỏ, thái mỏng, càng mỏng càng tốt, dọc theo nhánh gừng. Ngâm vào nước gạo qua một đêm (cho trắng ra và bớt cay). Vớt gừng, rửa sạch, chần qua nước phèn, chờ ráo nước. Trộn gừng với đường, đun nhỏ lửa, đảo đều tay (để gừng không bị vàng). Khi đường cạn đủ độ, lấy một giọt đường nhỏ vào bát nước, thấy đường vón thành chấm tròn không hòa tan, là được. Để nghiêng chảo, trộn cho thật khô đường, gỡ gừng ra từng miếng rời nhau. Lúc này mứt có màu vàng nhạt, khô, đường kết tinh thành những hạt cực nhỏ bám đều, mùi thơm cay ngọt đặc trưng, rất hấp dẫn.

     Gần đây, tôi hỏi anh Nguyễn Thừa Đinh, chủ cơ sở sở xuất bánh mứt kẹo nổi tiếng của Hà Nội: Nghe nói Hà Nội còn loại mứt gừng dẻo, sao anh không giới thiệu? Anh nhỏ nhẹ: Là gừng thì phải cay. Ăn gừng mà không thấy cái cay đủ độ thì có khác gì nghiện ớt lại đi ăn ớt không cay, thực chất, nó chỉ là một loại rau xanh mà thôi. Làm loại mứt này, đại khái như mứt gừng bánh tẻ. Có khác là phải chọn loại gừng non, cay rất nhẹ. Để dễ ăn, người ta còn thêm cả đu đủ xanh, thái mỏng pha với gừng.

     Tôi gật gù tỏ ra đồng ý với quan điểm của anh, song nói thêm: Cửa hàng Nếp Hương, năm nay, bên cạnh loại mứt gừng của anh, còn có mứt gừng Huế. Mứt gừng Huế cũng có hai loại: khô và dẻo. Cách chế biến không khác Hà Nội là mấy. Người đất Cố đô đặc biệt coi trọng khâu chọn gừng. Thường lên tận địa bàn xã Hương Thọ tìm mua gừng. Củ gừng ở đây có dáng thon nhỏ, khó làm nhưng rất thơm, ít cay, bán giá rất cao.

     Các tỉnh phía Nam cũng có mứt gừng. Người ở đây thích mứt gừng dẻo hơn. Mứt gừng Nam Bộ có khác một chút là có thêm thành phần lạc rang giã nhỏ bọc phía ngoài. Mứt gừng được ăn cùng với bánh phồng, ăn vừa cay, vừa dẻo, tạo ra vị ngon hấp dẫn.

     Gừng (cũng như quế) càng già càng cay. Người ta trung hòa cái cay này bằng cách chọn gừng bánh tẻ, lát gừng nhẵn, dễ thái, ít sơ, to bản.

     Tôi cho rằng, dù mai này, xã hội ta có phát triển thành giàu sang đến đâu thì trong những ngày tết Nguyên Đán, vẫn không thể thiếu hộp mứt tết trên ban thờ gia tiên với những vị: béo của dừa, bùi của lạc, mát của bí, của cà chua, thơm của quất, của dứa, chua của me và cay cay, hấp dẫn của gừng…

     Từ lâu, gừng đã vào ca dao Việt để gửi gắm những gì là nồng ấm, thiết tha, tình nghĩa của con người:


“Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”…


Bánh đậu xanh Bảo Hiên Rồng Vàng - Hải Dương

Bánh đậu xanh Bảo Hiên - dùng cho lễ ăn hỏi
Bánh đậu xanh Bảo Hiên - hộp 160 Gr

Bánh đậu xanh Bảo Hiên - hộp 300 Gr


Bánh đậu xanh Bảo Hiên - hộp 320 Gr

Bánh đậu xanh Bảo Hiên - hộp 450 Gr

Bánh đậu xanh Bảo Hiên - hộp 600 Gr

Bánh đậu xanh Bảo Hiên - hộp thỏi vàng



Kẹo lạc Sìu Châu - loại gói


Kẹo Sìu Châu - loại hộp giấy

Kẹo Sìu Châu - loại gói bọc giấy thiếc

Kẹo sìu châu - loại hộp nhựa

Kẹo vừng thanh, đặc sản Nam Định


Kẹo vừng đen
Kẹo vừng thanh - loại gói
Kẹo Vừng Thanh - loại bọc giấy thiếc
Kẹo vừng thanh - loại hộp
Kẹo vừng thanh - loại hộp nhựa

Thứ Ba, 6 tháng 11, 2012

Nếp Hương - tạo dựng nét riêng

Từ rất sớm, bố tôi đã nuôi hy vọng tôi sẽ thành một họa sỹ, vì không rõ bằng cách nào ông phát hiện năng khiếu hội họa của tôi từ khi tôi còn học lớp một, mới từ trường quê chuyển lên học ở Hà Nội. Ngày hai buổi, ông đèo xe đạp đưa đón tôi học lớp vẽ ở Cung Thiếu Nhi. Ông chăm chú theo dõi từng buổi học của tôi, động viên tôi bằng cách treo trang trọng lên tường nhà những bức vẽ được chấm điểm cao của tôi. Hết thời gian học ở Cung Thiếu Nhi, ông xin cho tôi vào lớp vẽ của thầy Phạm Viết Song. Tôi mau chóng trở thành học trò cưng của thầy. Cứ thế, vừa học văn hóa vừa học vẽ, đến năm lớp mười, tôi đã có tranh treo ở các triển lãm Mỹ Thuật toàn quốc và Hà Nội. Thầy Phạm Viết Song đến từng triển lãm xem tranh, chúc mừng tôi. Cả hai thầy trò đều cảm động. Thầy khuyên tôi nên xin vào trường Đại Học Mỹ Thật Hà Nội. Khi đất nước chuyển sang cơ chế thị trường, cơ quan bố tôi có chỉ tiêu cho con em đi lao động nước ngoài. Bố con tôi phải tính toán nhiều ngày, rất căng thẳng. Nhiều người thân cũng góp ý. Tôi nghĩ: Nếu có chí thì ở đâu cũng học vẽ được theo kiểu vừa làm vừa học, nhà nghèo, thôi hãy cứ đi lao động ít năm rồi sẽ học vẽ sau cũng không muộn. Những năm ở Tiệp Khắc, một nước có nền văn hóa đặc sắc, nhất là về kiến trúc cổ, tôi tranh thủ vẽ trong những ngày nghỉ. Tôi vẽ mê man những rừng cây, những lâu đài cổ, những con sông… Về nước, đúng vào lúc chú của tôi là chủ cơ sở sản xuất bánh đậu xanh Bảo Hiên, cần tôi giúp mở đại diện nhà bánh ở Hà Nội. Ba năm lao động, công sức của tôi cũng đóng góp với gia đình giải quyết được một số khó khăn trong đời sống, nhưng vẫn còn ngổn ngang bao lo toan. Cái cảnh bố tôi gò lưng tô màu cho từng nhãn hàng hóa bán cùng với bánh đậu xanh, rồi lễ mễ xách hàng đi giới thiệu khắp Hà Nội khiến tôi một lần nữa hoãn học vẽ, tuy không dễ dàng chút nào. Việc làm đầu tiên của tôi là trình bày và đưa in nhiều màu một số nhãn hàng cần thiết. Sau đó là thiết kế toàn bộ cửa hàng, lô gô cửa hàng đến những tủ hàng, bố trí các ngăn hàng sắp xếp các tên hàng trăm mặt hàng sao cho khách dễ tìm, dễ chọn. Nhiều khách qua đường ghé thăm cửa hàng chưa phải để mua hàng mà chỉ để ngắm và khen ngợi. Điều ấy động viên tôi, khiến tôi quên mệt nhọc. Công việc cứ cuốn tôi đi, ngày này sang ngày khác. Nhiều bạn học phổ thông với tôi ngày nào, cùng có chí hướng theo hội họa như tôi, nay đã thành những họa sỹ. Tôi đến nhà họ chơi, xem những tác phẩm của họ, có lúc thấy mủi lòng. Còn các bạn tôi thì lại mừng cho tôi, an ủi: “Cậu chọn con đường này là đúng đấy, nghề họa trong xã hội ngày nay chẳng được như xưa, làm nghệ thuật đúng đắn thì chẳng bán được tranh, chạy đua theo thị trường thì thấy lương tâm cắn rứt. Cậu yên tâm đi, bọn chúng tớ sẽ kéo cậu đi vẽ như ngày nào”. Tôi thầm nghĩ: Mình đang trên một đoạn đường rẽ dài đằng đẵng với biết bao công việc của nghề kinh doanh, chẳng biết bao giờ dứt ra được. Những khi về căn hộ quen thuộc sống với bố mẹ, tôi thấy lòng thư thái hẳn. Những bức tranh từng dự triển lãm, bố tôi vẫn giữ rất cẩn thận, tự tay bố tôi mua khung mới, chúng như mang sắc thái mới, đón chào tôi, trò chuyện với tôi. Tôi để ý, đã lâu lắm, bố tôi không nhắc đến bất cứ chuyện gì dính dáng đến hội họa với tôi. Tôi biết bố tôi cũng có nỗi buồn như tôi, đã không đạt được mong muốn cháy bỏng một thời. Tôi quý trọng bố tôi thêm. Trên đời có mấy ai thỏa nguyện mọi ước mơ. Tôi trở lại với công việc hàng ngày, với sự bình tĩnh, tự tin, vì ít ra, những hiểu biết về hội họa mà thầy Phạm Viết Song đã truyền thụ cho tôi ngày ấy, vẫn còn ở trong tôi mãi, giúp tôi giữ được cái vẻ đẹp riêng của cửa hàng, nơi đem lại đời sống thoải mái, yên tâm cho gia đình tôi trong cơn khủng hoảng kinh tế toàn cầu này.

Thứ Tư, 5 tháng 9, 2012

Bánh rế - Phan Thiết


Người làm ra hạt gạo quý hạt gạo, đã đành, còn quý cả những cái nồi biến gạo thành cơm. Mỗi cái nồi to nhỏ khác nhau, đều có những cái rế khác nhau, đan bện bằng tre, bằng những sợi dây rừng, tạo thành những hoa văn rất đẹp. Có dịp ra chơi thành phố, họ ngỡ ngàng khi thấy khách du lịch nước ngoài mua những cái rế ấy, cầm trên tay, khoác trên vai với vẻ thích thú. Họ còn biết, những cái rế ấy, khách mang về nước mình, không phải để bắc nồi niêu mà để treo trên tường, đặt trên giá làm vật trang trí. Họ lấy làm tự hào. Họ thấm thía: thì ra những cái gì đẹp đẽ đều được quý trọng. Chính họ, từ lâu đời cũng không phân biệt đối xử với những cái đẹp. Ví như họ đã làm ra những  chiếc bánh ngọt từ khoai lang tượng hình những cái rế bắc nồi nhà mình. Những chiếc bánh rế từ quê hương Phan Thiết, giờ đây đã theo đường Bắc Nam đến với các vùng miền đất nước. Khách mua hàng mới nhìn, tưởng là bánh làm bằng những sợi dừa Bến Tre. Khi biết bánh làm từ khoai lang ruột tím, ruột vàng Phan Thiết và khoai mì thì lấy làm lạ, mua ăn thử. Ăn thấy lạ và ngon, ít ngày sau lại đến hỏi bánh rế.
Quy trình làm bánh rế, khá đơn giản: khoai, sắn cạo sạch vỏ, rồi bào thành sợi dài. Những sợi này vấn vít với nhau, được nghệ nhân làm bánh nhanh tay rải, uốn vào những cái khuôn nhôm, tựa những cái môi múc canh nhưng nông hơn, theo hình thù đã định sẵn, nhanh tay ép những búi sợi xuống khuôn hình, để bánh chín đều và dàn mỏng trong chảo dầu sôi. Khi bánh được vớt ra, nhanh tay rưới nước đường đã được hoán sẵn lên mặt bánh một cách đều đặn và đúng mức độ, để bánh không quá ngọt. Những chiếc bánh được xếp chồng lên nhau khi khô đường, nguội bánh trong những chiếc túi nilon, bánh màu nâu (khoai tím) lẫn với bánh màu vàng trông rất đẹp mắt.
Bánh cho ta một hương vị đặc biệt. Đó là sự hòa quện giữa cái bùi bùi của tinh bột, cái beo béo của dầu, cái ngọt ngọt của đường mật, ăn giòn tan và để lại dư vị khó quên.


Thứ Hai, 30 tháng 7, 2012

Chén trà tâm sen


Chén trà Tâm sen
Chút mầm xanh đắng chát
Nằm giữa hạt ngọt bùi
Ngọt bùi và đắng chát
Nương vào nhau
                           Sen ơi!
Thách những phường độc ác
Rình rập dưới bùn tanh
Thách mưa vùi bão dập
Vươn thẳng nhìn trời xanh
Hương xoa dịu nhân gian
Hoa dựng đài cửa Phật
Ôi! Cái màu cánh sen
Có phải hồn dân tộc
Tươi rói tranh làng Hồ
Áo mớ bảy mớ ba
Màu hội Lim, quan họ
Tuổi già,
                           Đêm khó ngủ
Nhấp chén trà tâm sen
Muốn tìm về miền quên
Sen gợi sang miền nhớ
Cả nước, mùa sen nở
Hồ Tây, hồ Tịnh Tâm
Bát ngát vùng Đồng Tháp
Sen dịu dàng, dịu dàng
Ru con người vào giấc.
                                                          Hà Nội, mùa sen năm Nhâm Thìn 2012.

Thứ Sáu, 8 tháng 6, 2012

Tâm sen, hồ Tịnh Tâm, TP. Huế


Tâm sen có công dụng : An thần, thanh tâm, điều nhiệt, chữa mất ngủ, tâm phiền...

Bánh chả, đặc sản Hà Nội xưa

                                                                          Bánh chả

Thứ Ba, 29 tháng 5, 2012

Bánh gai Ninh Giang, đặc sản Hải Dương


Từ thủa hồng hoang đến giờ, con người đã tìm được ở thiên nhiên biết bao thứ quý giá để tồn tại, trong đó có vô vàn loài cây: cây lương thực, cây làm thuốc, cây may mặc…
Ví như cây gai, vốn được biết là cây lấy sợi, thế mà sau lại là cây ăn được. Chuyện rằng, ngày ấy, vùng Ninh Giang mất mùa nặng, nạn đói hoành hành. Có đôi vợ chồng đánh liều ra ruộng gai ngắt lá ăn. Thế mà không sao. Cây gai thành cây cứu người. Ăn lá gai thành quen. Cả khi đã có lúa đầy bồ, người dân ở đây vẫn nhớ vị lá gai. Người ta lấy lá khô giã nhỏ, trộn với bột nếp và vài thứ nguyên liệu nông nghiệp khác làm ra một thứ bánh đặc biệt: bánh gai, ăn mừng khi được mùa, ngày hội, ngày tết. Lại có truyền

Thứ Tư, 9 tháng 5, 2012

Bánh phu thê - Đình Bảng



     Chuyện kể rằng, ngày ấy, vua Lý Anh Tông thân chinh ra biên giới đuổi giặc ngoại xâm, người vợ ở nhà thương chồng vất vả, đã dùng những sản phẩm nông nghiệp tự tay làm ra một loại bánh gửi cho chồng. Vua ăn thấy ngon, nghĩ đến tình nghĩa chồng vợ đã đặt tên bánh là Phu Thê.

     Lại có chuyện khác kể rằng: vào thời nhà Lý, khi có hội làng hoặc vào dịp tết Nguyên Đán, dân làng Đình Bảng (Bắc Ninh) hay làm một loại bánh gọi là bánh xu xê hay xu xuê để dâng Thành Hoàng và cúng gia tiên. Một ngày hội làng năm ấy, vua Lý Thánh Tông cùng vợ là Nguyên Phi Ỷ Lan về quê Đình Bảng lễ các tiên vương ở đền Đô, được dân làng dâng bánh xu xuê. Vua và Nguyên Phi thưởng thức khen ngon. Thấu hiểu ý nghĩa triết lý và nhân văn ẩn chứa trong loại bánh, vua truyền rằng bánh này nên là một lễ vật cưới hỏi, lấy tên là bánh Phu Thê.

Thứ Hai, 7 tháng 5, 2012

Bánh phồng tôm Sóc Trăng


     Ngay cái tên bánh đã nói khá rõ đặc điểm của mặt hàng thực phẩm được ưa chuộng trên khắp đất nước ta. Đây không phải là thức ăn có thể ăn liền như bánh cốm, bánh đậu xanh,bánh gai…. Mà phải qua khâu làm chín, làm nở phồng lên trong chảo dầu, mỡ đang sôi. Người nữ giỏi gia chánh, bên bếp lửa hồng, biết thao tác thế nào để biến hóa từ chất liệu thô, giống như những lát khoai lang thái mỏng, khoanh tròn mầu trắng xỉn, thoáng trông chả có gì hấp dẫn, chốc lát biến thành những tấm bánh hình nấm, đua nhau mãn khai, đầy đặn, trắng xốp, thơm lừng, bồng bềnh trong chảo như đang nhắc người làm bếp hãy vớt chúng tôi nhanh, để chúng tôi đến với bàn tiệc.

Thứ Tư, 2 tháng 5, 2012

Bánh dừa nướng, bánh dừa dẻo - Đặc sản Quảng Ngãi



     Không biết từ bao giờ, con người gắn bó keo sơn với cây dừa đến thế! Bức tranh dân gian nổi tiếng “Hứng dừa” của nghệ nhân làng Đông Hồ (Bắc Ninh) mô tả cảnh sinh hoạt thường ngày của một số nam nữ thanh niên nông thôn, phần nào đã phản ánh được tình cảm ấy. Ở miền Nam nước ta có một số bà con theo Đạo Dừa, sinh sống dưới mái che của lá dừa, bóng rợp của vườn dừa, lấy dừa thay cơm gạo và nước uống để hành đạo đời này sang đời khác. Như vậy đủ hiểu quả dừa nhiều chất dinh dưỡng như thế nào!

     Những ngày hè nóng nực, dừa miền Nam dồn dập theo tàu xe chuyển ra miền Bắc. Các cửa hàng giải khát ở Hà Nội tràn ngập màu dừa xanh mát mắt.

Kẹo sìu châu, kẹo vừng thanh - Đặc sản Nam Định



     Những người thuộc nằm lòng câu ca dao bình dị và hóm hỉnh:

“Trèo lên trái núi Thiên Thai

Thấy hai con cọp đang nhai kẹo sìu

đều rõ là nói về một thứ kẹo đặc sản nổi tiếng của thành phố Nam Định. Từ xưa dân thành Nam đi chơi xa hoặc người tứ xứ thăm chợ Rồng (thành phố Nam Định) đều không quên mua gói kẹo sìu được bày bán trên những chiếc mẹt tre xinh xinh, vừa nâng lên đã thấy nức mùi thơm đặc biệt của bột nếp cái hoa vàng, màu trắng tinh khôi làm nền cho những thỏi kẹo sìu màu vàng nâu gợi cảm.

Thứ Sáu, 27 tháng 4, 2012

Bánh cốm hàng than



     Nhắc đến phố cổ Hà Nội người ta không thể quên Hàng Than, con phố nhỏ có nhiều nhà hàng bánh cốm. Mỗi độ thu sang hương cốm say lòng du khách. Với những bí quyết riêng, món đặc sản này không thể thiếu trong gói quà gửi người xa xứ, cưới hỏi, giỗ chạp.

     Người Hà Nội xưa đã nghĩ ra nhiều cách để thưởng thức cốm, cốm luyện với thịt nạc, giã ra, rán lên làm chả ăn với cơm gạo tám thơm. Cốm xào với đường kính trắng, giữ được lâu đến hàng tuần. Lọc bột đao pha đường trắng rồi thả hạt cốm vào, đun lửa sôi lên thành ra món chè cốm để ăn tráng miệng vừa ngọt lại vừa thanh… Cuối cùng, ông tổ dòng họ Nguyễn Duy ở phố Hàng Than mới nghĩ thêm ra cách đem sấy khô hạt cốm, chế ra món bánh cốm.

Mè Xửng Huế


     Mè xửng là sản phẩm truyền thống của cố đô Huế. Bản chất thanh lịch, cần cù, khéo léo của người dân Kinh kỳ đã tạo nên loại kẹo nức tiếng thiên hạ này bằng những nguyên vật liệu quen thuộc của đất cát miền Trung. Mè (vừng) và xửng (cách hoán đường) hợp thành tên kẹo. Ngoài vừng còn có bột đậu, mạch nha, bánh đa nữa. Hoán đường cộng với gia giảm nguyên vật liệu là khâu quan trọng nhất. Nó làm nên các loại mè xửng khác nhau.
     Mè xửng dẻo, dẻo đến mức có thể cuộn tròn hoặc bẻ gập thanh kẹo, nhưng bỏ tay ra nó lại trở về cái thế ban đầu. Mè xửng giòn, thành phần bột đậu nhiều hơn, đường ít hơn, được bọc ngoài một lớp bánh đa nướng, ăn giòn tan trong miệng. Mè xửng gương, giơ lên ngắm thấy trong suốt như gương. Mè xửng đen gồm toàn vừng đen bùi và bổ…

Thứ Năm, 26 tháng 4, 2012

Kẹo dồi Nam Định


Lạc rang húng lừu



     Những người Hà Nội sống cách đây non nửa thế kỷ, chắc còn nhớ tiếng rao “ phá xang” trên hè phố, giọng già có, trẻ có, vang vọng nhất là về đêm, những đêm lành lạnh vào thu... Sách báo có nhiều bài viết về món quà này, trong đó có bài của nhà văn Băng Sơn với hình ảnh một Chú khách tật nguyền bò lết trên đường bằng cả tay lẫn cẳng chân teo tóp, hay ngồi bên gốc đa cổ thụ ( cây này giờ đã không còn ) ở bờ hồ Gươm, bên mình là cái thùng đặc biệt bằng gỗ trong lót vải nhiều lớp chia làm hai ngăn đựng “phá xang” mặn và ngọt nhằm giữ cho hàng luôn nóng giòn

Bánh đậu xanh Bảo Hiên Rồng Vàng


     Về văn hóa ẩm thực, khi nhắc đến thành phố Hải Dương là người ta nhớ ngay đấy là quê hương của bánh đậu xanh Bảo Hiên Rồng Vàng.

     Người khai sinh ra loại bánh này là cụ Bảo Hiên, quê gốc Kiến An, nơi có những cánh đồng đậu xanh nổi tiếng thơm ngon của miền Bắc. Loại đỗ ấy được cụ đưa về Hải Dương sáng chế ra bánh đậu xanh năm 1922. Chẳng bao lâu, loại bánh này đã nổi tiếng ở nhiều nơi, được cấp bằng khen tại Hội chợ Đấu Xảo Hà Nội và Sài Gòn, được vua Bảo Đại cấp bằng khen có hình rồng vàng. Hình ảnh con rồng vàng trở thành nhãn hiệu của bánh đậu xanh Bảo Hiên từ đấy.

Bánh Pía Sóc Trăng - Tân Hưng


     Truyền thuyết: Khoảng thế kỷ XVII, một số người Tiều ở Triều Châu (Trung Quốc) di cư sang Việt Nam và trụ lại ở Sóc Trăng. Trên đường xa xứ, lương thực mang theo của họ là thứ bánh làm bằng khoai môn, mỡ lợn và đậu xanh (trong đó thành phần chính là khoai môn) có tên gọi: bánh Pía. Pía là âm đọc chữ Hán của từ bính (dịch sang tiếng Việt là bánh).

Ca dao: “Đi thì nhớ vợ cùng con

Về thì nhớ củ khoai môn trên rừng”.

     Từ điển: Khoai môn cùng họ với cây dáy, lá hình mũi tên, củ chứa nhiều tinh bột, dùng để ăn.

Thứ Tư, 25 tháng 4, 2012

Bánh đậu xanh Nguyên Hương - một phong cách kinh doanh

     Ông Đoàn Văn Đạt là cựu chiến binh. Ông xuất ngũ vào lúc cơ chế bao cấp được thay thế bằng cơ chế thì trường. Tháo vát và năng nổ kiểu người lính cụ hồ, ông liền nghĩ cách phục hồi kinh tế gia đình, phù hợp với tình hình mới, nghĩa là kiếm một nghề kinh doanh. Thị xã Hải Dương (khi ấy chưa là thành phố), quê ông nổi tiếng nghề làm bánh đậu xanh. Nghề này, ông không biết. Ông tìm đến những bác thợ già của nhà bánh Bảo Hiên đã nghỉ việc, nhờ chỉ bảo.

Hạt bàng Côn Đảo


     Cây bàng Côn Đảo gợi nhớ những hình ảnh xưa nhưng lại mang nhiều đặc trưng của đảo. Bàng Côn Đảo có gốc to lạ thường, ngay trong sân các trại giam mới, dãy bàng đã có gốc một, hai người ôm…

     Thân bàng Côn Đảo mới thật đặc biệt, không nhẵn, thẳng như thấy ở đất liền mà mọc đầy u, bướu to như chỉ thấy ở những cây xà cừ cổ thụ trên đường phố thủ đô. Hôm đầu thấy gốc, thân bàng với u bưới lạ kỳ trong sân trại giam Phú Hải tôi đã thầm nghĩ có lẽ những gậy gộc của cai tù đánh trên thân cây bàng đã tạo nên chăng; sau vài hôm mới thấy, bàng trên đảo đều có thân gốc đặc biệt như thế cả. Lá bàng ở đây rõ ràng dày và xanh hơn ở đất liền; cành cũng chia nhánh thấp hơn, không vươn lên cao rồi mới xòe thành tán như những tán bàng nơi sân trường. Sang thu, bàng Côn Đảo rất sai quả, từng chùm quả to và quanh gốc rất

Đà Lạt - Thiên nhiên diệu kỳ, đặc sản phong phú


Gần bốn chục năm rồi kể từ ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng, mỗi khi  nhắc  đến Đà Lạt, bố tôi vẫn cái giọng náo nức, trầm trồ như vừa mới gặp. Ấy là lần đầu tiên bố tôi được tham gia đoàn cán bộ văn hóa miền Bắc đi thăm một số thành phố miền Nam, trong đó có Đà Lạt. Mỗi bước đi là một bước ngỡ ngàng. Tháng Sáu. Hà Nội, Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn… nóng như rang. Đến đây, như đến một đất nước khác lạ. Trời mát rượi. Nắng nhạt. Gió lộng. Những thung lũng mây. Bạt ngàn hoa trái. Đâu cũng nghe tiếng thông rì rào, mùi nhựa thông thoang thoảng. Những con thác hùng vĩ: Đak Ta La, Cam Ly, Pren. Những hồ nước đẹp như tranh: Than Thở, Xuân Hương… Đến đây, những khái niệm về thành phố với những nhà cao tầng, đường phố kẻ ô bàn cờ, nhà ống kề nhau san sát, ồn ã xe cộ, mịt mù khói bụi… đều